Binh lực và phương án tác chiến của hai bên Chiến_dịch_Hồ_Chí_Minh

Quân Giải phóng

Bản đồ các mũi tiến công.

Quần chúng nhân dân

Song song với tổng tấn công của bộ đội chủ lực, Chiến dịch còn được thực hiện với quá trình nổi dậy của quần chúng nhân dân. Quá trình nổi dậy của quần chúng nhân dân đã diễn ra sôi nổi và được chuẩn bị từ sớm. Ngay từ cuối năm 1974, Trung ương CụcQuân Giải phóng đã có các biện pháp chính trị để chuẩn bị cho quần chúng tiến hành nổi dậy, đặc biệt đã có trên 40.000 người tham gia quá trình nổi dậy với 7.000 người công khai. Các biện pháp đấu tranh bao gồm: ra đường phố làm công tác địch vận, phổ biến lôi kéo, tranh thủ hù dọa đối với lực lượng bảo an tại chỗ của Việt Nam Cộng hòa, thúc đẩy binh sĩ vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ trang phục, rút khỏi trụ sở, đồn bốt, về nhà hoặc tháo chạy, ẩn náu... Sau khi Quân Giải phóng tiến vào tiếp quản các đô thị, quần chúng tiến hành dẫn đường hoặc chở bộ đội, bảo vệ nhà máy xí nghiệp, kho bãi, nhà ga, bến cảng, thu các giấy tờ, hồ sơ, hạ cờ Việt Nam Cộng hòa , kéo cờ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam , cử đại diện chính quyền cách mạng...

Hướng Bắc

Quân đoàn 1 Quân đội nhân dân Việt Nam gồm các Sư đoàn bộ binh 312 - Sư đoàn trưởng Nguyễn Chuông (Sư đoàn Chiến Thắng), 320B - Sư đoàn trưởng Lưu Bá Xảo (F390); Trung đoàn Pháo binh 45 (Đoàn Tất Thắng); Lữ đoàn Tăng Thiết giáp 202; Sư đoàn Phòng không 367; Lữ đoàn Công binh 299; được tăng cường Lữ đoàn Pháo binh 38 (Đoàn Bông Lau), Trung đoàn Tên lửa Phòng không 236 (Đoàn Sông Đà), ba Trung đoàn Công binh 239, 259, 279; một Trung đoàn Phòng không hỗn hợp, ba Tiểu đoàn Pháo binh độc lập rút từ Bộ Tư lệnh Pháo binh. Tổng quân số 31.227 người; 778 xe vận tải, 44 xe tăng; 36 khẩu pháo 130 mm, 105 mm và 75 mm; 120 khẩu cao xạ 57 mm và 37 mm; 9 xuồng máy, 2 ca nô, 12 xe công binh chuyên dụng.[21][22]

Nhiệm vụ của Quân đoàn 1 là bao vây tiêu diệt đối phương ở Phú Lợi, Bến Cát, Bình Dương, Lai Khê, Tân Uyên; ngăn chặn Sư đoàn 5 Việt Nam Cộng hòa rút về nội đô và vô hiệu hóa đơn vị này; tấn công đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Việt Nam Cộng hòa, các bộ tư lệnh binh chủng ở Gò Vấp, Bình Thạnh; tổ chức một lực lượng tấn công hợp điểm với các quân đoàn khác tại Dinh Độc Lập.[24][25] Do phải hành quân gấp từ miền Bắc vào bằng mọi phương tiện thủy, bộ và đường không nên Quân đoàn 1 bắt đầu tấn công chậm một ngày so với các đơn vị khác.[26]

Hướng Đông Nam

Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) Quân đội nhân dân Việt Nam ban đầu gồm các Sư đoàn bộ binh 325 – Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm (Sư đoàn Bình Trị Thiên), 304 – Sư đoàn trưởng Nguyễn Ân (Sư đoàn Vinh Quang); Lữ đoàn Pháo binh 164; Lữ đoàn Tăng Thiết giáp 203; Sư đoàn Phòng không 673; Lữ đoàn Công binh 219; Trung đoàn Đặc công 116. Tổng số xe chở hàng, chở người của Quân đoàn 2 lên tới 2.267 chiếc, trong đó có 54 xe tăng, 35 xe thiết giáp, 223 xe kéo pháo, 87 khẩu pháo 130 mm và 105 mm, 136 pháo cao xạ. Do được phối thuộc Sư đoàn 3 - Sư đoàn trưởng Trần Bá Khuê (Sư đoàn Sao Vàng) từ Quân khu 5 và một số đơn vị rút từ Quân khu 4, tổng quân số của Quân đoàn lên đến hơn 40.000 người (trước đó là 32.418 người).[27][28] Sư đoàn 324 (Sư đoàn Ngự Bình) ở lại bảo vệ HuếĐà Nẵng.

Quân đoàn 2 được giao nhiệm vụ tiến công trên chính diện rộng 86 km với chiều sâu nhiệm vụ từ 68 đến 70 km.[29] Nhiệm vụ ban đầu của quân đoàn là đánh chiếm căn cứ Nước Trong, chi khu Long Bình, Tổng kho Long Bình, chi khu Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, cảng và bến phà Cát Lái, chi khu Đức Trạch, pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, đánh chiếm Vũng Tàu, thị xã Bà Rịa, quận 9 và quận 4 Sài Gòn. Tổ chức lực lượng thọc sâu đánh chiếm quận 1 và quận 3, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.[30]

Hướng Tây Bắc

Loạt bài
Chiến tranh Việt Nam
Giai đoạn 1954–1959
Thuyết Domino
Hoa Kỳ can thiệp
Miền Bắc – Miền Nam
Giai đoạn 1960–1965
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam
Kế hoạch Staley-Taylor
Chiến tranh đặc biệt
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm
Giai đoạn 1965–1968
Miền Bắc

Chiến dịch:
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Mũi Tên Xuyên –Sấm Rền

Miền Nam

Chiến tranh cục bộ
Chiến dịch:
Các chiến dịch Tìm-Diệt
Phượng Hoàng –Tết Mậu Thân, 1968

Diễn biến Quốc tế
Giai đoạn 1968–1972
Diễn biến Quốc tế
Việt Nam hóa chiến tranh
Hội nghị Paris
Hiệp định Paris
Chiến dịch:
Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 –
Hè 1972 –Mặt trận phòng không 1972 
Phòng không Hà Nội 12 ngày đêm
Giai đoạn 1973–1975
Hội nghị La Celle Saint Cloud
Chiến dịch:
Xuân 1975
Phước Long
Tây Nguyên  -Huế - Đà Nẵng
Phan Rang - Xuân Lộc
Hồ Chí Minh
Trường Sa và các đảo trên Biển Đông
Sự kiện 30 tháng 4, 1975
Hậu quả chiến tranh
Tổn thất nhân mạng
Tội ác của Hoa Kỳ và đồng minh
Chất độc da cam
tiêu bản

Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) Quân đội nhân dân Việt Nam gồm các Sư đoàn bộ binh 316 - Sư đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy (Sư đoàn Bông Lau), 320A - Sư đoàn trưởng Bùi Đình Hòe (Sư đoàn Đồng Bằng), 10 - Sư đoàn trưởng Đoàn Hồng Sơn (Sư đoàn Đắc Tô); Trung đoàn Đặc công 198 (đoàn đặc công hậu cứ); hai Trung đoàn Pháo mặt đất 40 và 575 (đoàn Anh Dũng); Trung đoàn Xe tăng 273 (đoàn Sơn Lâm); các Trung đoàn Phòng không hỗn hợp 234 (đoàn Tam Đảo), 593 (mới bổ sung) và 232 (chuyển thuộc từ Đoàn 559); hai Trung đoàn Công binh 7 (đoàn Hùng Vương), 575 (chuyển thuộc từ Đoàn 559); Trung đoàn Thông tin 29; các Trung đoàn Gia Định 1 và 2. Tổng quân số 47.400 người, 54 xe tăng, 64 xe bọc thép, gần 100 khẩu pháo 130 mm, 105 mm và hỏa tiễn H12, trên 250 khẩu cối từ 61 mm đến 120 mm, 110 pháo phòng không 57 mm và 37 mm, hơn 250 khẩu súng máy phòng không các cỡ 12,4 mm và 14,5 mm.[24][31]

Khác với Quân đoàn 2, Quân đoàn 3 phải tấn công trên một chính diện hẹp từ 7 đến 10 km nhưng có chiều sâu nhiệm vụ lên đến 100 km.[32] Nhiệm vụ của quân đoàn trong giai đoạn 1 là sử dụng Sư đoàn 316 cùng binh chủng phối thuộc chặn đánh Sư đoàn 25 Việt Nam Cộng hòa tại Gò Dầu, Trảng Bàng, cắt đường 1B, bao vây, chia cắt không cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa điều các đơn vị ở Tây Bắc Sài Gòn lui về Đồng Dù, Củ Chi. Trong giai đoạn 2, Quân đoàn có nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất, các quận Tân Bình, Phú Nhuận đưa một bộ phận lực lượng thọc sâu, hợp điểm với các đơn vị khác tại Dinh Độc Lập.[30]

Hướng Đông Bắc

Quân đoàn 4 Quân đội nhân dân Việt Nam đã sứt mẻ gồm các Sư đoàn 6, 7 (Sư đoàn Bến Tre), 341 (Sư đoàn Sông Lam) của Quân khu 4 và Lữ đoàn Bộ binh 52; một Tiểu đoàn Pháo 130 mm; một Trung đoàn và một Tiểu đoàn Phòng không hỗn hợp, ba Tiểu đoàn Xe tăng - Thiết giáp. Sau trận Xuân Lộc, quân số của quân đoàn còn khoảng 30.000 người.

Nhiệm vụ của quân đoàn là đánh chiếm khu vực Biên Hòa - Hố Nai (gồm cả Sở Chỉ huy Không lực Việt Nam Cộng hòaSân bay Biên Hòa), tiến về Sài Gòn chiếm các quận 1, 2, 3, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Đài phát thanh Sài Gòn.[30][33] Cũng như Quân đoàn 1, đến 17 giờ chiều 27 tháng 4, Quân đoàn 4 mới chuẩn bị xong bàn đạp tiến công và bắt đầu nổ súng chậm hơn một ngày.[34]

Hướng Tây Nam

Đoàn 232 (Binh đoàn Cửu Long) Quân đội nhân dân Việt Nam gồm các Sư đoàn 5, 9 chủ lực Miền, Sư đoàn Phước Long (tên ban đầu là đoàn C30B); sáu Trung đoàn độc lập 16, 88, 24, Trung đoàn 271, 172 và 27B; Tiểu đoàn 26 Xe tăng (17 xe T-54), một Trung đoàn Đặc công, Tiểu đoàn Xe tăng 24 (18 xe PT-85), Tiểu đoàn 23 Xe bọc thép (22 xe BTR-60 và 8 xe M-113); 5 Đại đội Pháo binh gồm 27 khẩu từ 85 mm đến 130 mm, bốn khẩu cối 160 mm và một giàn hỏa tiễn H12; Trung đoàn Phòng không hỗn hợp 595, một Tiểu đoàn Pháo phòng không 23 mm và một Tiểu đoàn Súng máy phòng không 12,7 mm.[35][36] Sau khi được tăng cường Sư đoàn 8 (Quân khu 8), tổng quân số của Đoàn 232 lên đến khoảng 42.000 người.[30][37]

Đoàn 232 do Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu làm tư lệnh, Đại tá Trần Văn Phác làm chính ủy.[38]

Nhiệm vụ của đoàn là cắt đường số 4 (Bến Lức - ngã ba Trung Lương), chiếm Tân An, Mỹ Tho, chia cắt Sài Gòn và miền Tây Nam Bộ, thọc sâu đánh chiếm Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, cầu Nhị Thiên Đường, Tổng Nha Cảnh sát, các quận 5, 6, 7, 8, 10, 11.[39] Ngoài ra, đoàn 232 còn có nhiệm vụ đánh chiếm các tỉnh lỵ Long An, Kiến Tường; chốt chặn đường số 4 không cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn rút về đồng bằng sông Cửu Long.[35][36][40]

Mặc dù Sài Gòn - Gia Định là một thành phố lớn, rộng trên dưới 1000 km2, vào thời điểm tháng 4 năm 1975 có hơn 3,5 triệu dân nhưng Bộ Tư lệnh chiến dịch đã chọn 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm trong thời gian ngắn nhất: Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng Nha Cảnh sát, Sân bay Tân Sơn NhấtDinh Độc Lập.[41]

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Đến thời điểm mở chiến dịch, Quân lực Việt Nam Cộng hòa chỉ còn trong tay hai quân đoàn (III và IV), trong đó Quân đoàn III đã bị tổn thất đáng kể trong Chiến dịch Phan Rang - Xuân Lộc và các trận đánh ở vùng ven đô.

Quân đoàn III và Biệt khu Thủ đô

Quân số 245.000 người (bao gồm cả tàn binh từ Quân đoàn IQuân đoàn II nhập vào), 406 khẩu pháo, 624 xe tăng và xe thiết giáp, hơn 800 máy bay, 852 tàu các loại và xuồng chiến đấu.[4]

Các tuyến phòng thủ gồm có:

Tuyến ngoài:[42]

Tuyến trong:[43]

  • Ba Liên đoàn Biệt động quân được triển khai tại Bình Chánh, Hóc Môn, Bình Triệu.
  • Bốn Khu chiến được thành lập sau ngày 14 tháng 4 gồm:
- Liên đoàn 9 Biệt động quân, 2 Liên đoàn Công binh và số quân đang huấn luyện tại trại Quang Trung giữ Khu chiến Bắc từ Hóc Môn qua Cầu Bông đến sân bay Tân Sơn Nhất.- Các Liên đoàn Biệt động quân 7, 8 giữ Khu chiến Tây từ Vĩnh Lộc qua Tân Hiệp, Bà Hom đến Bình Chánh.- Liên đoàn Bảo an 239 và một Liên đoàn Phòng vệ Dân sự được vũ trang giữ Khu chiến Nam từ Nhà Bè đến Nhơn Trạch.- Lữ đoàn Dù 4, Liên đoàn Bảo an 391 và học viên Quân trường Thủ Đức giữ Khu chiến Đông từ Gò Vấp, Quận 9 đến Thủ Đức.
  • Năm liên khu phòng thủ nội đô gồm: Liên khu 1 (các quận 1, 3), Liên khu 2 (các quận 5, 6), Liên khu 3 (các quận 2, 4), Liên khu 4 (các quận 7, 8), Liên khu 5 (các quận 10 và 11). Các ổ đề kháng cũng được tổ chức tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Bộ Tổng Tham mưu (do Liên đoàn Biệt kích Dù 81 phòng thủ), Tổng nha Cảnh sát, Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất. Bản thân Dinh Độc Lập cũng được bố trí làm một trung tâm đề kháng với một Lữ đoàn Cảnh vệ Quốc gia có xe tăng và xe bọc thép tăng cường.[43]

Quân đoàn IV

Vùng đồng bằng sông Cửu Long do Quân khu IV - Quân đoàn IV Việt Nam Cộng hòa quản lý vẫn còn nguyên vẹn, có 175.000 quân được biên chế thành 3 sư đoàn bộ binh 7, 9, 21, một Lữ đoàn Bộ binh độc lập, Sư đoàn 4 Không quân, ba Trung đoàn Thiết kỵ, hai Hải đoàn Tuần duyên, ba giang đoàn; được trang bị 493 xe tăng, xe thiết giáp, 366 khẩu pháo, 409 máy bay (trong đó có 118 máy bay chiến đấu), 579 tàu, xuồng chiến đấu các loại. Các lực lượng này được bố trí trong các cụm đề kháng quanh các thành phố lớn, thị xã, các trục đường giao thông lớn trong đó có hai trọng điểm là Thành phố Cần Thơ và đường số 4.[44]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Hồ_Chí_Minh http://digitaljournalist.org/issue0005/ch1.htm http://baoquocte.vn/paris-3041975-1477.html http://www.baophuyen.com.vn/76/130239/chien-dich-h... http://www.voh.com.vn/tu-sai-gon-den-tphcm/chien-d... http://ntu.edu.vn/vi-vn/tintuc.aspx?macd=662&matin... http://kienthuc.net.vn/giai-ma/chuyen-bay-dinh-men... http://www.quandoinhandan.org.vn/30-4/ http://www.sggp.org.vn/chinhtri/40namtruoc/2015/4/... http://phapluattp.vn/20110609123546972p0c1021/xung... http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/247/247/24...